Học toán online - T@ THẤY

Hiển thị các bài đăng có nhãn hoc-truc-tuyen. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hoc-truc-tuyen. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2023

PHÉP ĐẾM

Lúc con còn nhỏ tôi phải dành cho nó khá nhiều thời gian, lê la bệnh viện không ít, nó hay ốm vặt. Để gỡ gạc, tôi thường dạy nó học, vừa học vừa chơi, học tính học đọc đều vậy

Phep-dem

Đếm với bút chì màu

Tôi lấy 3 cái bút chì trong hộp chì màu và dạy nó đếm. Xanh là 1, đỏ là 2, vàng là 3. Tôi bảo nó làm lại, nó bắt chước y hệt, xanh là, đỏ là, vàng là. Tôi bảo, bây giờ đếm vàng trước, và nó bắt đầu vàng là 1, đỏ là 2, xanh là 3. Rồi nó lại tự đếm đỏ là 1 vàng là 2 xanh là 3. Cuối cùng nó hiểu được sự kỳ diệu của phép đếm, với mấy cái bút đấy thì đếm kiểu gì vẫn là 3 🙂

via GIPHY

Khi nó đếm được nhiều hơn tôi dạy nó các con số, từ 1 đến 9, và 1 tuần liền 2 bố con đếm đủ thứ nhưng chỉ dừng lại ở 9. Nó bắt đầu sốt ruột, thế sau 9 là gì, vì hộp bút chì của nó có nhiều hơn 9. Tôi lấy thêm 1 bút trong hộp, bó cùng với 9 cái đang đếm làm 1 bó và nói, sau 9 là 1 bó, 1 bó thì gọi là 10, rồi dạy luôn, khi bó 1 bó rồi mà vẫn còn thừa thì lại đếm như trước, thêm được 1 thì gọi là 11, thêm 2 là 12…

Giờ thì phải dùng dụng cụ chuyên dụng rồi, phải mua que tính cho nó đếm. Nó đếm đến 19 rồi lấy thêm 1 que tính, mặt đầy bứt rứt nói, con lại đếm hết số mất rồi . Tôi lấy que tính thêm đấy bó lại với 9 que đã đếm thành 1 bó rồi đưa cho nó, 1 bó, 2 bó, và nói 2 bó thì gọi là 20. Tôi bảo nó đếm lại số que tính, nó mở ra đếm lại rồi đưa tôi 2 bó, nói 20. Tôi hỏi có cách nào đếm nhanh hơn không, mắt nó sáng lên rồi đếm 1 bó, 2 bó, là 20

Đếm ngón tay

Những lúc đi ngoài đường tôi bảo nó đếm ngón tay, và nó phát hiện ra số ngón tay của nó đúng bằng 1 bó, thêm cả ngón tay của tôi mới được 2 bó. Về nhà nó đếm thêm ngón tay của mẹ là 3 bó. Nó đang hăng, muốn học nữa, tôi nói nó đếm ngón tay của em, nó nói ngón tay em bé tí sao mà đếm được . Tôi nói, bé tí nhưng vẫn là ngón tay nên vẫn đếm được, nó nghe tôi đếm tiếp, và cả nhà được 4 bó

Dem-ngon-tay

Tôi lại phải mua cho nó bộ que tính to hơn vì nó vẫn say sưa đếm . Nó đếm đến 99 rồi lại hỏi, thêm 1 que nữa thì là gì. Tôi lấy thêm 1 que, bó với 9 que lẻ thành 1 bó rồi bảo nó đếm số bó, nó đếm được 1 bó bó rồi ngơ ngác . Tôi bó các bó đấy lại thành 1 bó và nói, sau 99 là 1 bó lớn, 1 bó lớn là 100

Nó hỏi, con số 0 là gì, sao 10 lại viết là 10. Tôi lại giải thích, 0 là không có gì để đếm, nhưng vẫn phải viết, để phân biệt 1 bó với 1 cái. Cũng để phân biệt 10 với 11, 11 là 1 bó rồi đếm thêm 1 cái, còn 10 thì ngoài 1 bó ra là không còn gì

Mấy cô chú hàng xóm biết nó sắp được vào đại học chữ to thì trêu, đưa cho nó 5 cái kẹo và bảo, cho cháu 4 cái kẹo. Nó nghi nghi nên lôi ra đếm, 1 này, 2 này,…, 5 này, tôi hiểu nó đã hoàn thành chứng chỉ toán đầu tiên, Phép đếm

Thứ Năm, 20 tháng 5, 2021

Phân số Ai cập

Chúng ta đều biết phân số 3/8 là kết quả của phép chia 3 : 8

Phan-so-ai-cap

Bài toán chia cam

Bài toán: chia đều 3 quả cam cho 8 bạn
Vì 3 quả cam không đủ để chia cho mỗi bạn 1 quả nên ta bổ mỗi quả thành 8 miếng bằng nhau, mỗi bạn được 1 miếng = 1/8 quả. Chia 3 quả như vậy thì mỗi bạn được 3 miếng = 3/8 quả

Nhưng người Ai cập lại có cách chia khác. Họ lấy 2 quả, mỗi quả bổ làm 4, được 8 miếng, chia cho 8 bạn, mỗi bạn được 1 miếng = 1/4 quả. Còn 1 quả bổ làm 8, mỗi bạn được 1 miếng = 1/8 quả. Với cách chia này thì số cam mỗi bạn nhận được là tổng 1/4 + 1/8 (quả). Các phân số này đều có tử số là 1 và chúng được gọi là phân số Ai cập

Thông minh hay chăm chỉ

Rõ ràng cách chia của người Ai cập thông minh hơn, nhanh hơn, ta không phải bổ 8 cả 3 quả cam. Nhưng sự thông minh này lại không có nhiều ý nghĩa trong việc phát triển lý thuyết số. Theo cách chia Ai cập thì kết quả của phép chia thường là 1 tổng các phân số (có tử số là 1). Còn theo cách chia đầu, dù có thể phải thao tác nhiều hơn, nhưng kết quả luôn là 1 con số (phân số, với tử số có thể khác 1). Phân số cũng là 1 con số, giống như số tự nhiên. Viết 3/8 thì tiện hơn, dễ hình dung hơn nhiều so với 1/4 + 1/8. Cũng vì vậy mà phân số Ai cập hiện nay không còn thông dụng

via GIPHY

Điều muốn nói ở đây là, thông minh cũng chỉ là công cụ, nó không phải là mục đích. Thông minh luôn cho lời giải tốt nhất trong những trường hợp cụ thể, nhưng để mở rộng vấn đề và hệ thống hóa kiến thức thì ta cần biết càng nhiều lời giải càng tốt, kể cả những lời giải chưa thông minh :). Khả năng khái quát hóa, “ngộ ra chân lý”, luôn đến từ những hoạt động lặp lại thường xuyên, dù là hoạt động chân tay hay hoạt động trí óc. Giải cùng 1 bài toán theo nhiều hướng là cách rất hữu hiệu để nâng cao năng lực khái quát hóa 

Chia kiểu Ai cập theo nhiều cách

Bài toán trên còn có thể giải theo cách khác
Bổ làm 3 cả 3 quả cam ta được 3 . 3 = 9 miếng, chia cho 8 bạn, mỗi bạn được 1 miếng = 1/3 quả. Còn thừa 1 miếng, lại chia làm 8, mỗi bạn được thêm 1 miếng bé = 1/3 : 8 = 1/24 quả
Tổng cộng mỗi bạn được 1/3 + 1/24 quả
Bí quyết ở đây là phải bổ thế nào để số miếng cam không ít hơn số bạn, khi đó ít nhất có thể chia cho mỗi bạn 1 miếng

Hư cấu

Người ta hay đánh đồng hư cấu với nói điêu, nói khoác. Câu “nhà văn nói láo nhà báo nói phét” có lẽ bắt nguồn từ sự đánh đồng này, vì đã viết văn thì thường phải hư cấu. Để hiểu rõ từ hư cấu ta cần giải nghĩa được từ cấu tứ, vì hư cấu là ăn theo, được tạo ra sau cấu tứ, tôi nghĩ vậy. 

Cau-tu

Nhiều người vẫn cho rằng, cấu tứ chỉ có trong văn chương, nhưng tôi thì luôn “thuyết phục” mọi người, làm văn và làm toán cũng không khác nhau là mấy. Vậy nên tôi sẽ cố gắng minh họa khái niệm cấu tứ và hư cấu thông qua 1 bài toán :)

Định lý 3 đường trung tuyến

Dinh-ly-H1Nhìn hình H1 chắc mọi người nhớ ngay đến bài toán kinh điển, 3 đường trung tuyến của 1 tam giác đồng quy tại 1 điểm. 2 đường trung tuyến BE và CF cắt nhau tại G, và G chia mỗi đường trung tuyến đó thành 2 đoạn thẳng với tỷ lệ 2 : 1, nghĩa là BG = 2GE và CG = 2GF

Dinh-ly-H2Tôi vẫn thường nói với các bạn học sinh, làm toán phải rất cụ thể, chứng minh BG = 2GE thì phải biết 2GE là đoạn nào, nằm ở đâu, và tôi giúp các bạn vẽ ra GP = 2GE, GQ = 2GF bằng cách kéo dài BE và CF tương ứng (hình H2). Với hình vẽ này ta thấy ngay 2 hình bình hành AGBQ và AGCP, điều đó được khẳng định bởi các cặp tam giác bằng nhau (tô xanh và tô tím).

Dinh-ly-H3Nhưng khi đó ta lại thấy BCPQ (hình H3) cũng là hình bình hành, được chứng minh bằng cặp tam giác tô mầu xanh lá. Và lời giải trở nên hiển nhiên: BG = GP = 2GE

Cấu tứ và Hư cấu

Có thể mỗi chúng ta đều đã tự hỏi, ai đã nghĩ ra định lý này? Nhưng chưa có ai từng nghe tên tác giả, hay có thể nói tác giả của nó là vô danh. Tôi thì đoán rằng, những người đo đạc là những người đầu tiên biết về nó (môn hình học là từ có xuất xứ hy lạp, geometry – đạc điền). Họ phát hiện ra nó trong lao động, trong công việc của mình.

Đầu tiên họ lờ mờ cảm nhận, rồi cảm nhận đó cứ lặp đi lặp lại, đến lúc nó trở nên hoàn toàn rõ ràng, chắc chắn. Và để truyền đạt lại điều đó, họ phát biểu nó thành định lý: 3 đường trung tuyến trong 1 tam giác đồng quy tại 1 điểm!

Những người đo đạc tin chắc vào định lý mà không cần chứng minh. Với họ chứng minh là thừa, họ sờ mó được nó thông qua công việc. Nhưng với đa số thì không, chẳng ai tin khi người ta vẽ ra 1 tam giác, rồi khẳng định 3 đường trung tuyến của nó phải đồng quy. Nó phải được chứng minh trước khi trở thành định lý

Từ ý tưởng mơ hồ ban đầu, người ta phải thu thập dữ liệu (số đo, hình vẽ) để có niềm tin, để khẳng định chắc chắn. Rồi trong hàng trăm hàng nghìn dữ liệu thu được, người ta chọn lọc, sắp đặt, trình bày, để chứng minh cho mọi người tính đúng đắn của định lý. Đó chính là cấu tứ, là đóng gói những ý tưởng còn chưa có hình hài thành những thứ có thể chạm vào được, truyền đạt được, có thể nhìn, nghe và đọc…

Như đã thấy ở trên, định lý được chứng minh bởi 3 hình bình hành (xem hình H2, H3). Chúng không có sẵn, ta phải tự thêm vào. Việc vẽ thêm đó chính là hư cấu, là 1 phần của cấu tứ. Hư cấu là làm hiển thị những cái đáng ra phải thấy! 

via GIPHY

Thực chất, 3 hình bình hành này đã có sẵn ở đó, nó chỉ chờ được hiển thị cho chúng ta thấy thôi. Hư cấu không phải là bịa chuyện để nói, hư cấu không cần cho người nói, nó cần cho người nghe, để hiểu được thông điệp, để chạm được vào cái mà người nói đã chạm và muốn truyền đạt lại

Cuối cùng tôi muốn nói, chúng ta không nghĩ ra mà chỉ có thể ngộ ra điều gì đó trong cuộc sống. Cả bài toán và lời giải đều có sẵn đấy, chắc chắn là như vậy, vì nếu ngược lại thì không bao giờ chúng ta “nghĩ ra” nó cả

TA THẤY

Hồi đi học, từ lớp 3 tôi bắt đầu làm quen với toán nâng cao. Tôi nhớ, gần như bài giải nào cũng bắt đầu bằng hai chữ ta thấy, chính những ta thấy đấy đã cuốn hút tôi, làm tôi yêu toán.

Ta thay - Pi

Bài toán 1

Tôi nhớ 1 bài toán lớp 5 : có 2 đại đội, đóng ở 2 điểm A và B, cách nhau 18km. 2 đại đội xuất phát cùng một lúc, đi về hướng gặp nhau, đại đội A đi với vận tốc 4km/h, đại đội B 5km/h. Đồng thời cũng có một liên lạc viên xuất phát cùng đại đội A, đi xe đạp với vận tốc 12km/h, có nhiệm vụ chuyển thông tin giữa hai bên trong suốt thời gian hành quân, khi gặp đại đội B thì anh lại lập tức quay trở lại gặp đại đội A, và cứ thế cho đến khi hai đại đội gặp nhau. Hỏi quãng đường liên lạc viên đi được là bao nhiêu km?

Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là ta cứ lần lượt tính, từ lúc xuất phát đến lúc gặp đại đội B thì người liên lạc đi được đoạn đường bao nhiêu, cũng xác định được đại đội A đang ở đâu tại thời điểm đó, và cứ thế tiếp tục tính cho đến khi hai đại đội gặp nhau, vì vận tốc của các bên đều được biết. Nhưng khi đặt phép tính thì thấy cũng không dễ dàng vì số rất lẻ, lắt nhắt, nản hơn nữa là không biết phải tính đến bao nhiêu lần như vậy mới tới lúc hai đại đội gặp nhau.

Ta thay - Bai toan 1

Biết là có mẹo mực gì đây, vì là toán nâng cao, tôi sốt ruột mở phần bài giải: ta thấy 🙂, thời gian người liên lạc di chuyển cũng chính là thời gian di chuyển của hai đại đội! Chỉ với một ta thấy đó thôi ta có thể tách bài toán này thành hai bài toán, bài thứ nhất là tính thời gian hai đại đội di chuyển từ hai địa điểm xuất phát đến lúc gặp nhau khi biết độ dài quãng đường và vận tốc di chuyển của cả hai đại đội, và bài thứ hai là tính quãng đường di chuyển của người liên lạc khi biết vận tốc và thời gian di chuyển. Cả hai bài đều dễ dàng giải được bằng những công thức có sẵn, cái ta thấy ở đây đã kết hợp chúng lại một cách độc đáo để tạo nên một bài toán rất đẹp.

Bài toán 2

Hồi lớp 8, tình cờ trong số báo Toán học tuổi trẻ cũ tôi tìm thấy bài toán đã mang lại giải đặc biệt cho Lê Bá Khánh Trình trong kỳ thi toán quốc tế năm 1979 (giờ thì thầy Trình đã thường xuyên dẫn các bạn học sinh đi thi quốc tế rồi 🙂 ). Bài toán như sau (xem hình vẽ):

Ta thay - Bai toan 2

Trong mặt phẳng cho hai đường tròn tâm O1, O2 giao nhau tại A và B. Hai điểm A1, A2 đồng thời di chuyển từ A với tốc độ không đổi, mỗi điểm theo một đường tròn và cùng hướng. Hai điểm trở lại A cùng một lúc (tức là sau một vòng). Chứng minh rằng tồn tại một điểm P cố định trong mặt phẳng sao cho hai điểm chuyển động A1, A2 luôn cách đều P.

Vì chỉ là bài toán hình học phẳng nên tôi hào hứng bắt tay vào chứng minh. Nhưng cái khó của bài toán là A1, A2 lại chuyển động, mà tôi thì lại chỉ quen làm các bài toán với các điểm cố định. Tất nhiên, hồi cấp 2 đã có những bài quỹ tích, nhưng trước khi những điểm đó chuyển động (theo quỹ tích), thì chúng đứng yên 🙂.

Thế là tôi lại phải mở phần bài giải, và một lần nữa: ta thấy!!, hai điểm A1, A2 chuyển động cùng hướng và trở về điểm A cùng một lúc, như vậy hai điểm chuyển động với cùng một vận tốc góc, nghĩa là hai góc AO1A1 và AO2A2 luôn bằng nhau. Chỉ một ta thấy của Lê Bá Khánh Trình đã biến bài toán thi quốc tế trở thành bài toán lớp 8, không quá khó.

Bài toán đố thú vị

Cấp 3, lớp 11, thầy giáo giao cho chúng tôi một bài toán: 6h sáng, một nhà sư khởi hành đi từ chùa trên núi xuống một chùa khác dưới núi. 6h sáng hôm sau ông lại khởi hành ngược trở lại. Trên đường đi, tại một điểm, ông ngạc nhiên nhận ra là ngày hôm qua mình cũng tới đây vào đúng thời điểm này. Chứng minh rằng, không phụ thuộc vào tốc độ đi nhanh chậm của nhà sư ở mỗi chiều đi về, sẽ luôn tồn tại một điểm như vậy trên đường đi.

Bài toán thật ngộ nghĩnh, cảm giác là lời giải chỉ quanh quất đâu đây, nhưng rồi loay hoay một hồi vẫn không tìm ra manh mối nào cả, đành phải chờ lời giải của thầy vào giờ toán hôm sau. Và đây là cái chúng tôi chờ đợi: giả sử, vào 6h sáng cái ngày hôm sau đấy, có một nhà sư thứ hai, giống hệt nhà sư ban đầu, khởi hành từ chùa trên núi xuống chùa dưới núi theo một lộ trình giống hệt lộ trình mà nhà sư ban đầu đã đi vào hôm trước. Sau cái giả sử này thì chẳng còn bài toán nào cả, chỉ còn lại một logic đời thường, hai nhà sư (giống hệt nhau 🙂 ) chắc chắn phải gặp nhau. Giả sử không phải là ta thấy, giả sử còn trên cả ta thấy!

Bài toán nổi tiếng của Pascal

Cũng năm lớp 11, thầy giáo giảng cho chúng tôi về cách nhà toán học pháp Pascal chứng minh thiết diện của một mặt phẳng nghiêng với một hình trụ là hình elip. Giả thiết này đã có từ lâu, ta chỉ cần nghiêng cốc nước sẽ thấy mặt nước bên trong cốc có hình elip, nhưng trước ông thì chưa có ai chứng minh điều này chính xác theo toán học.

Ta-thay-Pascal

Và cách ông chứng minh thật không tưởng (xem hình vẽ): từ hai đầu hình trụ, ta cho hai quả cầu lọt vừa khít vào trong hình trụ (đường kính của quả cầu bằng đường kính của hai đáy hình trụ), tiếp tục đẩy chúng vào cho đến khi chạm với mặt phẳng (được biểu diễn bằng đường tô màu xanh MN), và chúng tiếp xúc với mặt phẳng tại hai điểm C1, C2 nằm trên đoạn thẳng MN (màu đỏ).

Ta nhận thấy thiết diện của mặt phẳng với hình trụ, đường tô xanh MN, là hình elip với 2 tiêu điểm C1, C2, và trục lớn MN. Thật vậy, tổng khoảng cách từ một điểm bất kỳ trên đường tô xanh MN đến C1 và C2 cũng bằng tổng khoảng cách từ M (hoặc N) đến C1 và C2 và bằng A1A2 (hoặc B1B2).

Không hiểu ông đã thấy gì khi dùng hai quả cầu để trợ giúp mình, hay là cái răng đau đã tặng cho ông ý tưởng độc đáo này, vì thầy còn kể, đấy là trong một ngày bị cơn đau răng hành hạ, Pascal đã lấy giả thiết này ra để chứng minh!🙂

Những ta thấy tuyệt đẹp như vậy luôn là mơ ước của chúng tôi, nhưng nó luôn quá ít so với rất nhiều bài tập đã giải, rất nhiều định lý đã học. Vậy câu hỏi là, tại sao ta không thấy, những người khác thấy như thế nào, phải tìm những ta thấy cho riêng mình – những tôi thấy 🙂 ở đâu,…?

Tại sao ta không thấy

Quay trở lại với bài toán nâng cao lớp 5, rõ ràng người ra đề đã chủ ý cài bẫy, hướng ta đi theo một con đường phức tạp để giải bài toán. Nhưng cái bẫy này rất tuyệt, các sự kiện (sự đi đi về về của người liên lạc) cứ xoắn xuýt vào nhau, rất giống với những bộn bề thường nhật, cuốn trôi chúng ta, làm chúng ta quên mất những điều đơn giản nhất. Dừng lại một chút để suy nghĩ, sẽ dễ thấy khi đã biết vận tốc di chuyển thì cái duy nhất ta cần để tính quãng đường là thời gian di chuyển. Nhưng thường thì chúng ta sẽ bị lôi vào cái bẫy dành sẵn cho mình 🙂

Về bài thi toán quốc tế năm 1979 thì không một thí sinh nào khác nhìn thấy cái "Lê Bá Khánh Trình thấy". Có lẽ thói quen phải giải quyết những bài toán phức tạp cũng như áp lực phải tải một lượng lớn kiến thức cần thiết cho các kỳ thi đã không cho họ có một cái nhìn “đơn giản”. Đến chính người ra đề còn không thấy! Hồi đó tôi có nghe kể, chỉ là nghe kể thôi 🙂, bài toán này xuất phát từ bài toán hình học không gian, nhưng người ra đề đã giản lược để trở thành hình học phẳng, có lẽ vì vậy mà ông ta vẫn tư duy theo lối cũ, và không thấy hai điểm chuyển động với cùng một vận tốc góc, phát hiện dẫn đến lời giải độc đáo cho bài toán.

Về nhà sư, khi đã nghe lời giải bài toán ta có cảm giác nó quá đơn giản! Nhưng thực sự không hề như vậy, mối liên kết giữa hai sự việc (đi và về) là quá rời rạc, đành rằng chúng diễn ra trên cùng một không gian (con đường), nhưng về thời gian thì gần như chẳng liên quan, chúng xảy ra trong hai ngày khác nhau. Có những định kiến đã ăn sâu vào suy nghĩ của ta và ta không bao giờ có thể thay đổi, thời gian không quay trở lại! Nhưng nếu ta vượt qua được định kiến đó, và giả sử, chỉ giả sử thôi, ngày hôm nay sẽ trở lại vào ngày mai!, khi đó vấn đề sẽ được giải quyết, đơn giản đến không ngờ.

Vậy là không phải chúng ta không có năng lực để thấy, cũng không phải là không có cơ hội, chúng ta không thấy là vì bị mắc kẹt vào những cái bẫy (theo nghĩa rộng 🙂 ), những định kiến, những chân lý “tuyệt đối đúng”, mắc kẹt vào chính khối kiến thức mà ta đã có. Tôi có nhớ một câu nói, đại ý là: kiến thức là kết quả của quá trình học hỏi, nhưng cũng là vật cản, ngăn ta tiến xa hơn.

Những người khác thấy như thế nào

Với bài toán của Pascal, đúng là lời giải như từ trên trời rơi xuống, nhưng đó chỉ là cảm giác của chúng ta, chúng ta bị choáng ngợp bởi lời giải quá đẹp này. Với Pascal thì ý tưởng này không nảy sinh từ hư không. Có một bài toán hình học phẳng có lẽ đã là gợi ý cho ông (xem hình vẽ): với hai đường tròn tâm O1 , O2 không giao nhau ta vẽ hai tiếp tuyến chung ngoài A1A2 và B1B2 , sau đó vẽ tiếp tuyến chung trong MN, giao A1A2 và B1B2 tại M và N, và tiếp xúc với hai đường tròn tại C1 , C2 . Khi đó dễ thấy MC1 + MC2 = MA1 + MA2 = A1A2 = NC1 + NC2 = NB1 + NB2 = B1B2 , tức là C1 , C2 và MN có thể là hai tiêu điểm và trục lớn của một đường elip.

Ta-thay-H3

Và nếu hai đường tròn O1, O2 có cùng bán kính thì hai tiếp tuyến A1A2, B1B2 song song với nhau và cách đều O1O2. Khi đó qua phép quay quanh trục O1O2 , hai đường tròn sẽ vẽ nên hai mặt cầu tâm O1, O2 , còn A1A2 và B1B2 sẽ vẽ nên mặt xung quanh của hình trụ, tiếp xúc với hai mặt cầu theo hai đường tròn tô màu tím A1B1 và A2B2 (xem hình phần trên).

Với MN, ta sẽ không quay nó quanh trục O1O2 nữa mà coi nó như mặt cắt đứng của mặt phẳng giao với hình trụ bởi thiết diện MN tô xanh. Ta thấy các đẳng thức MC1 + MC2 = A1A2 = NC1 + NC2 = B1B2 vẫn còn nguyên, và với bất kỳ điểm K nào trên thiết diện MN tô xanh thì KC1 và KC2 lần lượt là tiếp tuyến của các mặt cầu O1 , O2 và đường thẳng K1K2 đi qua K song song với A1A2 và B1B2 (K1 , K2 lần lượt nằm trên hai đường tô màu tím A1B1 và A2B2 ) cũng là tiếp tuyến của hai hình cầu. Khi đó dễ thấy KC1 + KC2 = K1K2 = A1A2 , ta có điều phải chứng minh.

Chứng minh tương tự ta có: thiết diện của một mặt phẳng nghiêng với một hình nón tròn xoay (mặt phẳng không đi qua đỉnh hình nón và không song song với đường sinh) cũng là hình elip. Có thể thấy, lời giải bài toán không đến từ hành tinh khác, nhưng nó vẫn rất đẹp, có lẽ là cả vì cách trình bày lời giải, giống như cách cấu tứ trong văn chương, hai tiêu điểm được tìm ra bởi hai quả cầu một cách quá bất ngờ!

Hiểu sâu...để thấy

Lời giải tinh tế đến hoàn hảo mà Pascal đưa ra thể hiện sự nhạy cảm thiên bẩm của ông. Nhưng để làm toán, theo tôi nghĩ, chỉ một sự nhạy cảm thôi là chưa đủ. Khi những cái ta thấy mà ta biết là chưa nhiều, khi ta chưa hiểu chúng một cách sâu sắc thì thật khó để tìm được những ta thấy cho riêng mình. Có sự khác nhau giữa biết và hiểu, có thể nói rõ hơn về điều này qua ví dụ dưới đây.

Khi học vật lý, phần cơ học, thầy giáo hỏi chúng tôi: các em có biết tại sao khi đi xe đạp dưới trời mưa nhỏ, ta chỉ cần mặc áo mưa ở phía trước mà lưng vẫn không bị ướt không? Rồi bằng vectơ vận tốc thầy chứng minh điều đó cho chúng tôi.

Ta-thay-4
Trên hình vẽ: Vm là vận tốc rơi của giọt nước mưa, Vxd là vận tốc của người đi xe đạp. Vì mọi chuyển động là tương đối nên ta có thể coi là người đi xe đạp đứng yên, còn giọt mưa sẽ rơi với vectơ vận tốc V là tổng của hai vận tốc Vm và -Vxd . Theo hướng rơi V của giọt mưa thì rõ ràng ta chỉ cần che áo mưa mặt trước mà lưng vẫn không bị ướt.

Lời giải thích này, cộng với vẻ mặt “đắc thắng” của thầy, đã làm tôi mê môn học ngay lập tức 🙂. Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn, vì hướng rơi V của giọt mưa chỉ là kết quả của phép cộng vectơ, trên thực tế thì giọt mưa vẫn rơi thẳng, và khi người đi xe đạp đi đến vị trí A thì chẳng có gì ngăn cản mưa rơi ở vị trí đó, ngang tầm với lưng họ 🙂. Nhưng đúng là nếu trời mưa nhỏ thì ta chỉ cần mặc áo mưa đằng trước khi đi xe đạp. Bạn có thể lý giải cho tôi không?

Phép cộng vectơ hoàn toàn dễ hiểu, nhưng có thể thấy ta vẫn chưa thực sự hiểu ý nghĩa vật lý của nó trong trường hợp cụ thể này. Sẽ rất khập khiễng nếu so sánh, nhưng việc phát minh ra thuyết tương đối cũng có nét gì đó tương đồng. Phép biến đổi Lorentz được tìm ra bởi Lorentz, và đồng thời, bởi một số nhà khoa học khác, nhưng chính Einstein mới là người đem đến ý nghĩa vật lý cho nó, và ông mới được coi là người phát minh ra thuyết tương đối, đưa ra cách nhìn mới về không gian và thời gian.

Có thể tìm những ta thấy ở đâu?

Tôi biết hầu hết các bạn học sinh đều chỉ muốn khoe điểm tốt, còn bài điểm xấu là giấu biệt 🙂. Nhưng thực sự thì những điểm tốt chỉ giúp chúng ta khoe thành tích, còn cái có thể giúp chúng ta tiến bộ lại chính là những bài điểm kém. Làm lại những bài làm sai hoặc không làm được ta sẽ tìm được những điều hết sức thú vị mà ta quên hoặc hoàn toàn không biết, ta sẽ có cơ hội lấp đầy những lỗ hổng trong kiến thức của mình.

Nói cách khác, cách dễ nhất để tìm những ta thấy là tìm trong sai lầm, trong thất bại, trong mâu thuẫn giữa các hiện tượng, trong tranh luận (không phải tranh cãi nhé 🙂 ). Tóm lại là tìm trong những vấn đề nổi cộm, vì tìm được điều gì mới trong những điều “đương nhiên đúng” là rất khó. Sẽ rất ít ai có thể nghi ngờ sự tồn tại tuyệt đối độc lập của thời gian, nghi ngờ về một không gian tĩnh tuyệt đối mà vũ trụ của chúng ta vận động trong đó, để nhận ra rằng không có cái tuyệt đối nào cả, thời gian và không gian cũng chỉ là tương đối, và chúng co giãn tương đối trong các hệ quy chiếu khác nhau.

Học hiệu quả cùng Ta thấy

Tôi có nói chuyện với một bạn học sinh, bạn có nói là trước giờ làm toán chỉ nghe mỗi ta có thôi, chưa nghe ta thấy bao giờ 🙂. Và bạn thường xuyên làm bài bằng công thức mà bạn chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa của nó và của những khái niệm chứa trong nó, dù điểm số cũng khá cao. Thế hệ tôi ngày xưa đi học thường được gọi là những thợ làm toán, thế hệ bây giờ còn tiến xa hơn, thành máy làm toán, máy làm văn, máy học 🙂. Và có lẽ vì thế mà câu hỏi học để làm gì cũng xuất hiện nhiều hơn.

Nhưng câu trả lời của ngành giáo dục nói riêng và của xã hội nói chung thì lại luôn mang tính tư tưởng cao, học để làm người, hoặc phải biết sống để làm gì mới biết học để làm gì. Tôi nghĩ các bạn trẻ đâu có quan tâm vấn đề ở tầm vĩ mô như vậy, các bạn hỏi cụ thể hơn, học để làm gì nghĩa là học đạo hàm, tích phân, truyện kiều, học lịch sử...để làm gì.

Tôi thì luôn nghĩ rằng, mục đích cao nhất của học là để thấy, nếu ta thấy được những điều ẩn chứa đằng sau mỗi công thức toán, lý, hay hóa, đằng sau mỗi câu chuyện lịch sử, mỗi tác phẩm văn học, đằng sau mỗi sự việc thường ngày thì việc học để làm người hay làm gì đi nữa cũng dễ dàng hơn rất nhiều.

Tôi rất ấn tượng với câu chuyện về đời thật của Stephen Hawking trong phim Thuyết vạn vật (The Theory of Everything). Sau khi nghe một bài giảng về công thức toán học đưa đến giả thuyết về sự hình thành và tồn tại của hố đen, ông đã lập tức muốn áp dụng công thức đó cho toàn bộ vũ trụ, và nếu đúng là vũ trụ đang giãn nở theo Thuyết tương đối rộng của Einstein, thì khi ta quay ngược thời gian, sẽ thấy nguyên thủy của vũ trụ là một hố đen, là nơi vật chất sẽ biến mất khi rơi vào đó.

Nhưng vũ trụ không những không biến mất trong hố đen mà còn được hình thành nên từ nó, vậy phải có cái gì chưa được tìm thấy? Và ông đã tìm ra bức xạ mang tên chính mình, bức xạ Hawking, là cái khiến cho hố đen không hoàn toàn đen, và là cái dẫn đến Big Bang, điểm khởi đầu của vũ trụ. Sức mạnh vô cùng của cái thấy thể hiện ở chỗ, toàn bộ thuyết Big Bang được “thấy” chỉ qua các công thức toán học!

Chính vì thế tôi muốn bắt đầu một cách học mới, cùng với bạn học sinh, học thông qua ta thấy, lấy ta thấy làm đơn vị để đo kiến thức của người học, người dạy, và của bài giảng, với hy vọng là bạn ý sẽ thấy nhiều hơn, áp dụng được vào cuộc sống nhiều hơn và không phải học đi học lại, không phải bò ra học trước mỗi kỳ thi 🙂. Bạn có bắt đầu cùng chúng tôi không?


Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021

HỌC GÌ & HỌC THẾ NÀO

Hồi học chuyên toán bọn tôi thường được/bị gọi là thợ giải toán. Không chỉ 1 thầy nói vậy. Cũng không ai lo lắm, vì nếu tất cả đều là thợ như nhau thì quan trọng nhất vẫn là điểm thi, thợ nào giải được nhiều bài hơn sẽ thắng. Nhưng thực sự trong lòng tôi rất băn khoăn, học chuyên toán ai chẳng mơ, nếu không làm nhà toán học thì ít ra cũng phải biết làm toán và ứng dụng toán, bọn tôi chỉ không biết phải học thế nào?

Hoc-gia

Học gì?

Gần đây người ta lại nói, học toán chỉ cần học cộng trừ nhân chia là đủ, còn sin, cos, khai căn…học làm gì, rất nhiều kiến thức toán học chẳng áp dụng vào đâu. Nhưng ai cũng ngầm hiểu, đấy là bản thân người học không áp dụng được vào đâu thôi chứ toán thì có vô số ứng dụng, nếu không có toán thì cũng không có điện thoại thông minh hay máy tính bảng, không có internet với rất nhiều dịch vụ tiện ích, không có 4.0 mà giờ ai cũng nhắc tới…

Vậy câu hỏi đặt ra phải là, cũng là toán nhưng sao có 1 số người ứng dụng được để làm ra tiền, trong khi số khác chỉ biết vừa đủ để tiêu tiền . Cũng giải cùng những bài toán đấy sao có người trở thành nhà toán học, có người mãi chỉ là thợ giải toán. Có phải tất cả chỉ phụ thuộc vào những tố chất trời cho của mỗi cá nhân

Học chỉ để đi thi?

Tôi vẫn còn nhớ, lúc đi du học, trong 1 bài giảng vật lý vào tiết cuối, chúng tôi đã cố lê theo thầy đến 1 công thức dài ngoằng, rồi thầy đóng gói tất cả những thứ loằng ngoằng nhất vào 1 hệ số, công thức trở nên cân đối, gọn gàng, thấy hay hay. Tưởng xong, định gấp sách vở thì thầy hỏi, ý nghĩa vật lý của hệ số này là gì. Thế có mệt không chứ 🙂

via GIPHY

Chúng ta đã quen dừng lại ở công thức, chỉ cần công thức là đủ để giải toán rồi, đâu cần phải biết ý nghĩa này nọ. Cũng như bây giờ các bạn học sinh đều biết, thể tích V của 1 thanh sắt và khối lượng m của nó là 2 đại lượng tỷ lệ thuận, m = kV. Nhưng nếu thử giải thích cho các bạn ý nghĩa vật lý của hệ số k thì các bạn sẽ nhìn thầy cô với 1 dấu hỏi to tướng, bọn em có cần biết điều đó để giải bài tập không?

Dù chỉ cần tiến thêm 1 bước, lấy trường hợp V = 1cm3, ta sẽ có (theo công thức) k = m, bằng khối lượng của 1cm3 sắt, k chính là khối lượng riêng của sắt. Nhưng không phải bạn nào cũng quan tâm. Các bạn càng không quan tâm, người ta đã phải làm thực nghiệm, cân đo, ghi chép, tính toán thế nào… để đi đến công thức đó.

Cũng còn 1 lý do khác khiến các bạn không quan tâm đến phương pháp thực nghiệm. 1 số bạn thấy ngay, chỉ cần cân 1cm3 sắt để biết khối lượng riêng của nó là ta có thể đi đến công thức trên, duy nhất bằng suy luận logic. Đó là vì các bạn có 1 trực giác rất tốt, nhưng đây cũng là trường hợp hiếm hoi khi ta có thể đi đến 1 công thức chỉ bằng trực giác và suy luận. Trực giác không thể mách cho ta biết phải cân đo cái gì để tính được gia tốc trọng trường, g = 10m/s^2, chúng ta không thể tìm ra nó nếu không thực nghiệm.

Có rất nhiều thứ có thể học được từ 1 bài học nhưng chúng ta chỉ chọn công thức, vì mục đích cuối cùng của chúng ta chỉ là để giải bài tập. Có rất nhiều thứ có thể học được từ 1 bài toán nhưng chúng ta chỉ cần đáp số. Chúng ta (hoặc sách giáo khoa) thường bỏ qua phần hay nhất của bài học, rồi lại hỏi, học để làm gì?

Sẽ rất khỏe nếu chúng ta chỉ cần dùng trực giác để làm mọi việc. Chúng ta rất thích phát hiện ra chân lý mà không cần động chân động tay, không cần thực nghiệm, thử và sai... Trực giác là điểm mạnh của người Việt Nam, chúng ta luôn được khen là nhanh nhạy, khéo léo, thông minh…, nhưng đấy cũng chính là điểm yếu của chúng ta, chúng ta hoặc coi trực giác là tất cả, hoặc tệ hơn, chúng ta lại không muốn dùng đến nó (chỉ cần học công thức có sẵn).

Hoc-de-thi

Việc chúng ta giải được 1 bài toán ở trường không có ý nghĩa gì cho khoa học cả, nó đã được giải từ lâu rồi, nó cũng không có ích gì cho tương lai của chúng ta cả, chúng ta sẽ không gặp lại, thời đại đã khác rồi, lợi ích trực tiếp duy nhất có thể từ việc đó là điểm số trong các kỳ thi.

Học như thế nào?

Vậy nên đừng hỏi, học toán, học cái này cái kia để làm gì, những câu hỏi như vậy sẽ che khuất 1 lợi ích “gián tiếp” nhưng vô cùng to lớn, chúng ta học là học phương pháp tư duy, là cái còn đọng lại sau khi ta đã quên hết những bài toán đã giải, là cái giúp chúng ta sắp xếp lại toàn bộ kiến thức 1 cách hệ thống, ngăn nắp.

Chúng ta học để biết cách thiết kế và thực hành thí nghiệm, biết phân tích, liên tưởng, biết đặt câu hỏi tại sao…để nhận biết sự khác nhau, để liên kết những cái giống nhau (trong những cái khác nhau), để làm rõ, thu hẹp vấn đề, hoặc khái quát, mở rộng vấn đề... Càng nhiều phân tích, liên tưởng, càng nhiều tại sao càng tốt, chúng ta sẽ cho trực giác cơ hội thể hiện bằng cách đặt nó vào vị trí thuận tiện nhất, rồi nó sẽ cho ta biết phải làm thế nào. Trực giác, dù sắc sảo đến đâu, vẫn cần có cơ hội để ngộ ra 1 điều gì đó.

Nếu chúng ta học như vậy thì kiến thức có được sẽ dễ dàng ứng dụng vào cuộc sống. Tôi gọi nó là kiến thức nền, nó sẽ còn mãi ngay cả khi ta đã ngừng làm toán. Kiến thức nền không phải là triết học, kinh tế học hay 1 môn học nào đó, chúng ta có thể có được nó khi học có phương pháp 1 môn học bất kỳ. Ngược lại, ta có thể học rất nhiều môn mà vẫn không có nó. Tôi tin rằng, ở tầng đủ sâu, kiến thức nền nhận được sẽ là như nhau khi ta học các môn học khác nhau. Cũng có nghĩa là kiến thức đó có thể áp dụng trong mọi lĩnh vực.

Hoc-gi-2

Học để có kiến thức nền đòi hỏi nhiều thời gian, tâm sức hơn, nhưng khi đã vượt qua được giai đoạn đầu, khi đã có 1 lượng kiến thức nhất định thì việc học sẽ nhàn nhã mà hiệu quả hơn rất nhiều. Khi đó chúng ta hoàn toàn có thể tiếp tục với môn học thứ 2, thứ 3…

Tôi nghĩ các bạn học sinh không nên học 1 lúc quá nhiều thứ, học trên trường rồi về còn học thêm đủ các môn. Như thế không biết các bạn có còn đủ thời gian để học có phương pháp, dù chỉ 1 môn, vì nếu không, sau này các bạn sẽ lại hỏi, học toán để làm gì, học văn để làm gì… Chúng ta đang rất lãng phí trong dạy và học!

Riêng học toán cũng vậy, chúng ta không cần cố phải giải thật nhanh, thật nhiều, mà tốt hơn nên giải kỹ từng bài, để thấy trong từng bước ta đang áp dụng kiến thức nào đã học, có gì giống nhau trong các bài toán khác nhau, có thể mở rộng bài toán như thế nào…Làm 1 bài như vậy cũng bằng làm 2 – 3 bài khác, mà lại chỉ cần đọc 1 đề bài.
Không phải học gì, mà học thế nào mới là cái trước tiên cần bàn